Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn dạy cho thái hậu Vi Đề Hy rằng: “Này Vi Đề Hy! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhân từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam quy, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, sâu tin nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tấn người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp. Này Vi Đề Hy! Nay bà có biết chăng? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.”.
Lời đức Thế Tôn đã xác quyết,
chánh nhân vãng sinh Tịnh độ chính là đây. Mười phương ba đời chư Phật
cũng từ chánh nhân này thành tựu đạo quả, vậy phàm phu như chúng ta không thể
không y giáo phụng hành. Chánh
nhân ấy nói rộng là như vậy, nhưng tóm gọn lại chỉ gồm ba điều “Tín, Nguyện và Hạnh”.
1. Niềm tin chân chính (Tín tư
lương)
Tín chính là cửa ngõ để vào đạo
giải thoát. Không
có niềm tin chắc chắn không thành tựu được việc gì. Người thế gian kinh doanh
buôn bán quan trọng vẫn là tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Sự ngờ vực sẽ dẫn đến
chia rẽ, khoảng cách, bất hòa, nghi kỵ, là nguyên nhân gia đình đổ vỡ, xã hội bất
an, thế giới chiến tranh loạn lạc.
Trong giáo lý nhà Phật, hầu hết
các pháp môn tu đều lấy “Tín” làm nền
tảng như: “Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ”.
Riêng với người thực hành pháp môn Tịnh độ, “Tín” lại được xem như căn bản của con đường tu tập.
Trong kinh A-Di-Đà, đức Thế Tôn đã cho rằng pháp
môn Tịnh độ là “nan tín chi pháp” tức
là pháp môn rất khó tin. Vì sao? Vì dễ tu chứng! Vì sao dễ tu chứng? Vì ngoài tự lực của mỗi chúng
sinh còn có tha lực của chư Phật gia trì. Tự lực của chúng sinh có hữu hạn
nhưng đối với tha lực của chư Phật vô hạn vô cùng không thể dùng trí phàm phu
đo lường được. Thế nên người không tin pháp môn này tức không tin vào năng lực
vô biên của chư Phật, cũng chính là không tin vào lời chắc thật của Phật Thích-Ca
Mâu-Ni
và hạnh nguyện của Phật A-Di-Đà.
Vậy muốn vãng sinh Tịnh độ cần
phá bỏ lưới nghi “nghi thời hoa không nở”, một
lòng chánh tín nương theo lời Phật chỉ dạy, làm kim chỉ nam trực thẳng đến Tây
phương Cực Lạc.
Tín được chia làm hai: chánh
tín và mê tín. Đối với người tu Tịnh độ không tin nhân quả, không tin lời Phật
dạy, không tin có cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Đà... đó là mê tín. Ngược lại là
chánh tín.
Trong Vãng Sinh Luận, Bồ-tát Thế Thân dạy rằng:
“Y theo quán sát công đức chân thật cõi
Tịnh độ mà sinh lòng tin.” Vậy công đức chân thật ấy chính là:
*Tin cõi Tịnh độ và lời nguyện của
đức Phật A-Di-Đà hoàn toàn chắc thật
Trong thế gian có vô số uế độ
vì có vô số chúng sinh tạo nghiệp sinh tử luân hồi mà cõi Ta-bà là một trong số
đó. Do đó vô số Tịnh độ xuất hiện vì hạnh nguyện chư Phật trong 10 phương 3 đời
vẫn luôn bao trùm khắp không gian, thời gian mà Tịnh độ của Phật A-di-đà là một.
Lời đại nguyện thâm sâu được phát ra từ lòng bi mẫn của vị Pháp Tạng Tỳ-kheo
khi còn ở nhân địa tu hành Phật quả được đức Phật nói rõ trong phần 2 của
kinh Vô Lượng Thọ: “Nhân duyên Ngài Tỳ-kheo Pháp Tạng phát 48
đại nguyện trước đấng Thế Tôn và nhờ công đức tu tập thù thắng, đức hạnh thâm mật,
Ngài thành tựu Pháp thân hiệu A-di-đà, thể hiện cảnh giới như tâm nguyện và ngự
trị cõi nước tên là Cực Lạc ở phương Tây.”
*Tin chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh
tăng đều gia trì hộ niệm
Cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có
vô lượng Bồ-tát, Thanh văn.Trong đó, đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí là bậc
Bồ-tát thượng thủ, trợ giúp đức Phật giáo hóa chúng sinh. Tâm nguyện của các
Ngài rộng lớn không gì sánh bằng, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thích-ca dạy trong phần quán tưởng về đức
Quán Thế Âm: “Quán Thế Âm Bồ-tát ấy chỉ
nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ.” Chúng sinh chỉ cần
nghe tên Bồ-tát thôi phước đức đã không thể nghĩ bàn.Vì sao? Vì công đức của chư Bồ-tát,
Thanh văn ở cõi Tịnh độ là vô lượng, công đức ấy không khác gì công đức của Phật
A-di-đà.
*Tin nhân quả
Định luật này bao trùm khắp vũ
trụ vạn hữu.Người tu Tịnh độ nếu xa lìa nhân quả mười phần công đức không được
một.Thế nên nhân nào quả đó, niệm Phật, quán tưởng cõi Phật là nhân, vãng sinh
Tịnh độ thành Phật là quả.Nhân quả tuy muôn trùng nhưng tóm gọn trong câu “Thiện
nhân thiện quả, ác nhân ác quả”.
*Tin bản thân có thể vãng sinh,
thành tựu Phật quả
Đức Thế Tôn đã dạy “Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Đó là lời thọ ký, lời
xác quyết đầy tuệ giác của đức Thích-ca Mâu-ni. Chúng ta thường nghe “Phật,
chúng sinh tánh thường rỗng lặng”, tánh rỗng lặng chính là Phật
tánh, là Chân tâm thường trú, là Diệu giác tánh, là Bản lai diện mục cũng chính
là Phật A-di-đà trong mỗi chúng sinh. Phật đã thành vì Ngài nhận ra được bản
tâm thanh tịnh đoạn trừ phiền não chướng, sở tri chướng, tự độ, độ tha, nên
viên thành Vô thượng chánh giác. Chúng sinh vì lấy ba độc tham,
sân, si làm cam lồ nên trôi lăn trong ưu bi, khổ não. Nay nương nguyện lực Phật,
nương tha lực Phật, tin tự lực chính mình nỗ lực tiến tu, gieo tịnh nhân, trồng
tịnh nghiệp, niệm hồng danh Phật, thiết tha cầu nguyện vãng sinh lo gì không
thành Phật.
2.
Chí nguyện chăn chính, thiết tha (Nguyện tư lương)
Nguyện chính là động lực thúc đẩy
người niệm Phật tinh cần ngày đêm không thoái chuyển vì mục tiêu cứu cánh vãng
sinh Tịnh độ, thành tựu Phật quả vì lợi lạc cho chúng hữu tình. Nếu nguyện
không tha thiết, tâm Bồ-đề dễ bị lay chuyển, nhờ có nguyện mới giữ được đạo
tâm, trau dồi đạo lực, viên thành đạo quả. Cũng như người cưỡi ngựa nắm vững
dây cương, khéo léo điều phục làm chủ trên lưng ngựa mà không bị té ngã.
Đức Phật A-di-đà lúc còn là
Pháp Tạng Tỳ-kheo cũng nhờ nơi 48 đại nguyện mà thành lập nên cõi Tịnh độ Tây
phương. Đức Thích-ca Mâu-ni khi còn là vị Thái tử trải qua 6 năm khổ hạnh không
có kết quả, vượt sông Ni Liên Thiền đến dưới cội Bồ-đề phát lời thệ nguyện “Nếu
không thành Phật thề không đứng dậy”. Đức Quán Thế Âm vì muốn thành
tựu hạnh nguyện độ tha đã phát 12 lời thệ nguyện rộng cứu chúng sinh.Từ đây cho
thấy, xa rời thệ nguyện không thể nào thành tựu Phật đạo.
Chúng sinh muốn vãng sinh Tịnh
độ nên ngày đêm thiết tha phát nguyện. Nguyện này phải dựa trên tâm Bồ-đề, vì
giá trị của tâm Bồ-đề là vô cùng tận được Ngài Tịch Thiên dạy rõ trong Nhập Bồ-tát Hạnh:
“Bồ-đề tâm cam lồ bất tử
Vô tận kho trừ khử đói nghèo
Dược phương chữa bệnh cheo leo
Bóng cây che mát nhóc nheo hữu tình.”
Lại nữa, trong kinh Quán Vô Lượng Thọ,đức Phật bảo
A-nan và Vi Đề Hy: “Người sinh Cực Lạc
thế giới, bậc Thượng phẩm Thượng sanh ấy, nếu có chúng sinh nguyện
sinh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh. Những gì là ba tâm? Một là chí thành tâm, hai là
thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sinh Cực
Lạc thế giới.”. Ba tâm ấy được gồm thâu trong hai phần:
*Bồ-đề tâm phát nguyện
Vào buổi sáng trước khi bước xuống
giường, hoặc trước thời công phu sáng, người niệm Phật nên ngồi ngay ngắn, chắp
tay thành kính hướng về bàn Phật hoặc hướng tây khởi lên động lực làm sống dậy
Bồ-đề tâm nguyện theo phương pháp 6 nhân 1 quả:
· Tất cả chúng sinh trong vô
lượng kiếp đến nay đều là cha mẹ, thân thuộc của con.
· Cha mẹ đã từng cưu mang và
nuôi dạy con bằng mọi hình thức tốt nhất có thể.
· Con xin ghi nhớ ân đức mà
cha mẹ đã dành cho con.
· Con nguyện báo đáp ân đức
cao đẹp của cha mẹ.
· Hiện giờ chúng sinh đang
trôi lăn trong vòng sinh tử như người mẹ thân thiết của con đang bị cuốn trôi
trong dòng nước xiết, con nguyện cứu họ thoát khỏi dòng sinh tử khổ đau ấy.
· Con
nguyện đem mọi phương tiện như chư Phật đưa họ đến an vui vĩnh cửu.
· Con xin gánh chịu mọi khổ
đau của chúng sinh và nguyện đem an vui mà con có được dù chỉ là nhỏ bé dâng tặng
cho họ.
Từ 6 nhân này nếu được huân tập
thuần thục sẽ thành tựu quả vị Bồ-đề tâm vô thượng tức gồm đầy đủ “thành
tâm và thâm tâm”. Đây chính là điểm then chốt trong các pháp tu theo
Đại thừa giáo điển.
3. Phương pháp hành trì (Hạnh
tư lương)
Nếu “Tín” là sự
xác quyết con đường đi hoàn toàn chân thật, “Nguyện” là động
lực để tiến hành thì “Hạnh” chính là bắt đầu sự
khởi hành.
Đối với người tu Tịnh độ tư
lương “Hạnh” chính là sự gia công tinh tấn hành trì liên tục
không gián đoạn. Phương pháp tu tập pháp môn Tịnh độ đã được đức Phật Thích-Ca
Mâu-Ni
dạy rất rõ trong bản kinh Quán Vô
Lượng Thọ, kinh A-Di-Đà, kinh Vô Lượng Thọ và Vãng Sanh luận do Bồ-tát Thế Thân trước thuật. Nay chỉ
khái lược qua những điểm chính yếu sau:
Dùng niềm tin chân chính thiết
tha chuyên niệm hồng danh “Nam mô A-Di-Đà Phật.”. Ngày
đêm tinh tấn không khởi tạp niệm, hành trì đến khi nhất tâm bất loạn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét