●❈❈❈● NIỆM PHẬT MỘT NIỆM PHƯỚC SANH VÔ LƯỢNG. LẠY PHẬT MỘT LẠY DIỆT TỘI HÀ SA ●❈❈❈●

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2022

PHƯƠNG PHÁP TU TẬP ĐỂ VÃNG SANH

Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn dạy cho thái hậu Vi Đề Hy rằng: “Này Vi Đề Hy! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhân từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam quy, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, sâu tin nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tấn người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp. Này Vi Đề Hy! Nay bà có biết chăng? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.”.

Lời đức Thế Tôn đã xác quyết, chánh nhân vãng sinh Tịnh độ chính là đây. Mười phương ba đời chư Phật cũng từ chánh nhân này thành tựu đạo quả, vậy phàm phu như chúng ta không thể không y giáo phụng hành. Chánh nhân ấy nói rộng là như vậy, nhưng tóm gọn lại chỉ gồm ba điều “Tín, Nguyện và Hạnh”.

1. Niềm tin chân chính (Tín tư lương)

Tín chính là cửa ngõ để vào đạo giải thoát. Không có niềm tin chắc chắn không thành tựu được việc gì. Người thế gian kinh doanh buôn bán quan trọng vẫn là tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Sự ngờ vực sẽ dẫn đến chia rẽ, khoảng cách, bất hòa, nghi kỵ, là nguyên nhân gia đình đổ vỡ, xã hội bất an, thế giới chiến tranh loạn lạc.

Trong giáo lý nhà Phật, hầu hết các pháp môn tu đều lấy “Tín” làm nền tảng như: “Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ”. Riêng với người thực hành pháp môn Tịnh độ, “Tín” lại được xem như căn bản của con đường tu tập.

Trong kinh A-Di-Đà, đức Thế Tôn đã cho rằng pháp môn Tịnh độ là nan tín chi pháp tức là pháp môn rất khó tin. Vì sao? Vì dễ tu chứng! Vì sao dễ tu chứng? Vì ngoài tự lực của mỗi chúng sinh còn có tha lực của chư Phật gia trì. Tự lực của chúng sinh có hữu hạn nhưng đối với tha lực của chư Phật vô hạn vô cùng không thể dùng trí phàm phu đo lường được. Thế nên người không tin pháp môn này tức không tin vào năng lực vô biên của chư Phật, cũng chính là không tin vào lời chắc thật của Phật Thích-Ca Mâu-Ni và hạnh nguyện của Phật A-Di-Đà.

Vậy muốn vãng sinh Tịnh độ cần phá bỏ lưới nghi nghi thời hoa không nở, một lòng chánh tín nương theo lời Phật chỉ dạy, làm kim chỉ nam trực thẳng đến Tây phương Cực Lạc.

Tín được chia làm hai: chánh tín và mê tín. Đối với người tu Tịnh độ không tin nhân quả, không tin lời Phật dạy, không tin có cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Đà... đó là mê tín. Ngược lại là chánh tín.

Trong Vãng Sinh Luận, Bồ-tát Thế Thân dạy rằng: “Y theo quán sát công đức chân thật cõi Tịnh độ mà sinh lòng tin.” Vậy công đức chân thật ấy chính là:

*Tin cõi Tịnh độ và lời nguyện của đức Phật A-Di-Đà hoàn toàn chắc thật

Trong thế gian có vô số uế độ vì có vô số chúng sinh tạo nghiệp sinh tử luân hồi mà cõi Ta-bà là một trong số đó. Do đó vô số Tịnh độ xuất hiện vì hạnh nguyện chư Phật trong 10 phương 3 đời vẫn luôn bao trùm khắp không gian, thời gian mà Tịnh độ của Phật A-di-đà là một. Lời đại nguyện thâm sâu được phát ra từ lòng bi mẫn của vị Pháp Tạng Tỳ-kheo khi còn ở nhân địa tu hành Phật quả được đức Phật nói rõ trong phần 2 của kinh Vô Lượng Thọ: “Nhân duyên Ngài Tỳ-kheo Pháp Tạng phát 48 đại nguyện trước đấng Thế Tôn và nhờ công đức tu tập thù thắng, đức hạnh thâm mật, Ngài thành tựu Pháp thân hiệu A-di-đà, thể hiện cảnh giới như tâm nguyện và ngự trị cõi nước tên là Cực Lạc ở phương Tây.”

*Tin chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh tăng đều gia trì hộ niệm

Cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà có vô lượng Bồ-tát, Thanh văn.Trong đó, đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí là bậc Bồ-tát thượng thủ, trợ giúp đức Phật giáo hóa chúng sinh. Tâm nguyện của các Ngài rộng lớn không gì sánh bằng, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thích-ca dạy trong phần quán tưởng về đức Quán Thế Âm: “Quán Thế Âm Bồ-tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ.” Chúng sinh chỉ cần nghe tên Bồ-tát thôi phước đức đã không thể nghĩ bàn.Vì sao? Vì công đức của chư Bồ-tát, Thanh văn ở cõi Tịnh độ là vô lượng, công đức ấy không khác gì công đức của Phật A-di-đà.

*Tin nhân quả

Định luật này bao trùm khắp vũ trụ vạn hữu.Người tu Tịnh độ nếu xa lìa nhân quả mười phần công đức không được một.Thế nên nhân nào quả đó, niệm Phật, quán tưởng cõi Phật là nhân, vãng sinh Tịnh độ thành Phật là quả.Nhân quả tuy muôn trùng nhưng tóm gọn trong câu “Thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả”.

*Tin bản thân có thể vãng sinh, thành tựu Phật quả

Đức Thế Tôn đã dạy “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Đó là lời thọ ký, lời xác quyết đầy tuệ giác của đức Thích-ca Mâu-ni. Chúng ta thường nghe “Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng”, tánh rỗng lặng chính là Phật tánh, là Chân tâm thường trú, là Diệu giác tánh, là Bản lai diện mục cũng chính là Phật A-di-đà trong mỗi chúng sinh. Phật đã thành vì Ngài nhận ra được bản tâm thanh tịnh đoạn trừ phiền não chướng, sở tri chướng, tự độ, độ tha, nên viên thành Vô thượng chánh giác. Chúng sinh vì lấy ba độc tham, sân, si làm cam lồ nên trôi lăn trong ưu bi, khổ não. Nay nương nguyện lực Phật, nương tha lực Phật, tin tự lực chính mình nỗ lực tiến tu, gieo tịnh nhân, trồng tịnh nghiệp, niệm hồng danh Phật, thiết tha cầu nguyện vãng sinh lo gì không thành Phật.

2. Chí nguyện chăn chính, thiết tha (Nguyện tư lương)

Nguyện chính là động lực thúc đẩy người niệm Phật tinh cần ngày đêm không thoái chuyển vì mục tiêu cứu cánh vãng sinh Tịnh độ, thành tựu Phật quả vì lợi lạc cho chúng hữu tình. Nếu nguyện không tha thiết, tâm Bồ-đề dễ bị lay chuyển, nhờ có nguyện mới giữ được đạo tâm, trau dồi đạo lực, viên thành đạo quả. Cũng như người cưỡi ngựa nắm vững dây cương, khéo léo điều phục làm chủ trên lưng ngựa mà không bị té ngã.

Đức Phật A-di-đà lúc còn là Pháp Tạng Tỳ-kheo cũng nhờ nơi 48 đại nguyện mà thành lập nên cõi Tịnh độ Tây phương. Đức Thích-ca Mâu-ni khi còn là vị Thái tử trải qua 6 năm khổ hạnh không có kết quả, vượt sông Ni Liên Thiền đến dưới cội Bồ-đề phát lời thệ nguyện “Nếu không thành Phật thề không đứng dậy”. Đức Quán Thế Âm vì muốn thành tựu hạnh nguyện độ tha đã phát 12 lời thệ nguyện rộng cứu chúng sinh.Từ đây cho thấy, xa rời thệ nguyện không thể nào thành tựu Phật đạo.

Chúng sinh muốn vãng sinh Tịnh độ nên ngày đêm thiết tha phát nguyện. Nguyện này phải dựa trên tâm Bồ-đề, vì giá trị của tâm Bồ-đề là vô cùng tận được Ngài Tịch Thiên dạy rõ trong Nhập Bồ-tát Hạnh:

“Bồ-đề tâm cam lồ bất tử

Vô tận kho trừ khử đói nghèo

Dược phương chữa bệnh cheo leo

Bóng cây che mát nhóc nheo hữu tình.”

Lại nữa, trong kinh Quán Vô Lượng Thọ,đức Phật bảo A-nan và Vi Đề Hy: “Người sinh Cực Lạc thế giới, bậc Thượng phẩm Thượng sanh ấy, nếu có chúng sinh nguyện sinh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh. Những gì là ba tâm? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sinh Cực Lạc thế giới.”. Ba tâm ấy được gồm thâu trong hai phần:

*Bồ-đề tâm phát nguyện

Vào buổi sáng trước khi bước xuống giường, hoặc trước thời công phu sáng, người niệm Phật nên ngồi ngay ngắn, chắp tay thành kính hướng về bàn Phật hoặc hướng tây khởi lên động lực làm sống dậy Bồ-đề tâm nguyện theo phương pháp 6 nhân 1 quả:

·   Tất cả chúng sinh trong vô lượng kiếp đến nay đều là cha mẹ, thân thuộc của con.

·   Cha mẹ đã từng cưu mang và nuôi dạy con bằng mọi hình thức tốt nhất có thể.

·   Con xin ghi nhớ ân đức mà cha mẹ đã dành cho con.

·   Con nguyện báo đáp ân đức cao đẹp của cha mẹ.

·   Hiện giờ chúng sinh đang trôi lăn trong vòng sinh tử như người mẹ thân thiết của con đang bị cuốn trôi trong dòng nước xiết, con nguyện cứu họ thoát khỏi dòng sinh tử khổ đau ấy.

·   Con nguyện đem mọi phương tiện như chư Phật đưa họ đến an vui vĩnh cửu.

·   Con xin gánh chịu mọi khổ đau của chúng sinh và nguyện đem an vui mà con có được dù chỉ là nhỏ bé dâng tặng cho họ.

Từ 6 nhân này nếu được huân tập thuần thục sẽ thành tựu quả vị Bồ-đề tâm vô thượng tức gồm đầy đủ “thành tâm và thâm tâm”. Đây chính là điểm then chốt trong các pháp tu theo Đại thừa giáo điển.

3. Phương pháp hành trì (Hạnh tư lương)

Nếu “Tín” là sự xác quyết con đường đi hoàn toàn chân thật, “Nguyện” là động lực để tiến hành thì “Hạnh” chính là bắt đầu sự khởi hành.

Đối với người tu Tịnh độ tư lương “Hạnh” chính là sự gia công tinh tấn hành trì liên tục không gián đoạn. Phương pháp tu tập pháp môn Tịnh độ đã được đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni dạy rất rõ trong bản kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-Di-Đà, kinh Vô Lượng Thọ và Vãng Sanh luận do Bồ-tát Thế Thân trước thuật. Nay chỉ khái lược qua những điểm chính yếu sau:

Dùng niềm tin chân chính thiết tha chuyên niệm hồng danh “Nam mô A-Di-Đà Phật.”. Ngày đêm tinh tấn không khởi tạp niệm, hành trì đến khi nhất tâm bất loạn./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét